Dập Dềnh Sông Nước miền Tây (Bài 3: Câu cá He bằng hạt bông gòn)

Feb 23, 2015 10:37:23

Với người xưa, câu cá không chỉ là một việc giải trí mà còn là cách để suy ngẫm chuyện đời,cân nhắc chuyện đại sự, chờ thời cơ ra hoạt động, thể hiện tài năng,giúp dân giúp nước. Họ có nhiều cách câu cá, nhiều loại mồi “độc” để câu từng loại cá. Câu cá he bằng hạt bông gòn là một trong những điều độc đáo đó.

Để bắt cá to và bắt được nhiều, người dân chuẩn bị thu nhặt hạt gòn từ vài tháng trước mùa bắt cá. Đến cuối tháng chín, đầu tháng mười Âm Lịch, thế hệ cá sinh sản vào tháng tư, tháng năm trong năm đã lớn. Khi nước “đứng”, dòng chảy ở sông rạch chỉ lờ đờ còn nước trên các cánh đồng thì “lình bình”, đây là thời điểm lý tưởng để câu cá He bằng hạt gòn. Người ta đem ngâm hạt gòn một đêm hoặc lâu hơn cho thật ngấm nước cho hạt gòn nặng thêm một chút nếu không chúng nhẹ tâng,dễ bị gió thổi bay đi nơi khác. Hạt gòn chỉ câu được cá he mà thôi, không hấp dẫn các loại cá khác. Mỗi năm vào mùa chỉ có thể câu cá he độ khoảng 2 tuần là hết mùa.

Cá He là một loài cá quý, ngon bậc nhất của dòng họ cá trắng

Cá He là một loài cá quý, ngon bậc nhất của dòng họ cá trắng nhưng nhược điểm là có nhiều xương. Thuộc họ hàng cá Mè, cá He là một trong ba loại cá mè sống ở sông rạch miền Tây Nam Bộ gồm cá He, Mè dảnh, Mè Dinh. Thuở xưa, ở miệt Châu Đốc, cá Mè có rất nhiều mà cá He thì nhiều nhất, được cho là ngon và quí hơn hai loài mè kia. Hình dáng của ba giống cá này tương đối giống nhau nhưng rất dễ phân biệt: Cá He có kỳ, vi, đuôi đỏ, vảy trắng, mịn, mềm; cá mè dảnh: về hình dáng, màu vảy trắng giống y hệt cá he nhưng kỳ vi, đuôi lại cùng màu với vảy, sậm hơn màu trắng của vẩy một chút. Cá mè dinh thì màu trắng của vảy sậm hơn, vẩy cứng hơn. Kỳ, vi, đuôi cùng màu với vảy. Trong ba giống cá dinh, dảnh và he, cá dinh lớn con hơn hai giống cá kia. Cá dinh lớn, hai ba con là được một ký lô, còn cá he, cá dảnh cũng phải bốn, năm con mới được một ký. Cá he ngon nhất rồi mới tới cá dảnh, cá dinh đứng vào hàng thứ ba.

Cá He thì chia ra làm hai loại là He nghệ và He thường. Cá He nghệ ngon, béo nhất và cũng quý hiếm nhất trong dòng họ cá mè. Cá sinh cùng một lứa có con lớn con nhỏ khác nhau, không như câu thành ngữ: “Cá mè một lứa” (cho rằng cá Mè sinh cùng một lứa thì có hình dáng, giá trị giống nhau, ngụ ý: những người cùng hội cùng thuyền, làm điều gì đó thì thường là việc xấu và người nầy giống y như người kia không khác biệt nhau). Trong cá He nghệ và cá He thường, nếu trọng lượng bằng nhau, người ta thấy cá He thường to con hơn, chiều dài, chiều ngang lớn hơn cá He nghệ. Nhìn, quan sát kỹ sẽ thấy cá He nghệ mình dầy hơn, nọng to hơn. Gọi là cá He nghệ vì chúng có nọng to, vàng ươm, đây là chỗ ngon nhất của cá Mè nói chung. Vẩy cá He nghệ cũng trắng nhưng màu trắng có pha lẩn màu vàng nên người ta mới gọi là cá he nghệ. Cổ của cá He nghệ cũng dầy, thịt nhiều hơn cá He thường.

Khoảng 9-10 giờ sáng, người quê ăn cơm sáng xong là bắt đầu làm việc. Đàn ông thì nằm tum đâm cá bông, phụ nữ kiên trì nhẫn nại hơn được phân công đi bắt cá He. Mỗi xuồng chỉ một người câu. Ngồi câu cá He phải tuyệt đối tĩnh lặng, người câu không dám ho, không nhúc nhích, sợ xuồng nghiêng, lắc, động cá He sẽ lặn đi mất. Họ chống xuồng vào những khu vực có lúa hoặc cỏ rậm, khoét một lỗ tròn bằng miệng thúng nhỏ, rải xuống đó một nắm hạt gòn. Mỗi chỗ cách nhau chừng mười, hai mươi thước. Người thợ  câu  phải  mất ba bốn ngày mới tìm được năm bảy chỗ có nhiều cá He đến ăn hạt bông gòn và cá cũng quen dần sự khuấy động nước nên chúng cũng dạn dĩ hơn.

Hạt gòn đã ngấm nước nên không bị gió đẩy trôi ra xa. Sau đó, họ đánh dấu tất cả các lỗ đã rải hạt gòn bằng cách thắt nơ trên những ngọn lúa hoặc ngọn cỏ cao, cột dính chùm lại để dễ nhận biết từ xa. Mỗi ngày, họ ra "thăm" chỗ đánh dấu. Nơi nào hết hạt gòn, họ rải tiếp một nắm khác. Chỉ có cá He là thích ăn hạt bông gòn. Nơi nào hạt gòn còn nguyên nghĩa là nơi đó không có cá He, người ta bỏ chỗ đó, không tiếp tục thả mồi nhử cá nữa.

Cần câu cá He là một nhánh tre thật nhỏ hoặc một thanh tre được chuốt nhỏ, trơn láng, mềm dẻo. Người thợ câu cá He thường mang theo hai, ba cần câu phòng gỡ cá không kịp thì dùng cần khác thay. Dây câu là loại chỉ may quần áo se đôi lại còn lưỡi câu chính là những cây kim may bị hư chuôi mà người ta gọi là kim “sứt đít”, uốn cong lại. lưỡi câu không có ngạnh vì lưỡi có ngạnh bắt cá rất chậm.

Nghệ thuật câu cá He là sự kiên nhẫn, nhanh mà không bộp chộp và nhất là không được làm sẩy cá nếu không thì nước bị khuấy động, cá he sợ sẽ lặn mất. Ngồi câu cá he không được ăn trầu hoặc hút thuốc, quan sát những con cá He đang tranh ăn hạt gòn, tiếp tục rải mồi nhưng không được nhiều quá vì nếu ăn no quá chúng cũng lặn mất. Thợ câu còn có cách làm cho cá He bớt nhát là tiếp tục thả hạt gòn xuống khi cá He đang tranh giành quẫy đuôi đớp mồi. Họ ngồi nhìn chúng đùa giỡn để rồi hôm sau đến điểm đó và “ra tay”. Những chỗ có nhiều cá He, chúng phơi kỳ vi đỏ chói, phô bày da bụng trắng toát hoặc vàng ươm của những con cá He nghệ, tranh giành mồi làm nước bắn tung tóe. Thời điểm này, người câu không cần phải móc mồi gòn nữa,thả lưỡi câu xuống cá cũng đớp dính, chỉ cần giật lên thật nhanh rồi cho vào xuồng đã có nước để rộng cá.

Xuồng câu chỉ có phần mũi là có vạt để người câu ngồi, còn các khoang khác để trống và có nước. Khoang trống là để rộng cá cho cá tiếp tục sống, lưỡi câu không ngạnh nên dính không chắc, cá dễ dàng rơi vào khoang, không mất nhiều thời gian cho thao tác kế tiếp.Còn mục đích chứa nước vào khoang trống là để be xuồng thấp xuống, người câu ngồi sẽ làm nghiêng sang một bên, chỉ cách mặt nước chừng hơn một tấc, cá sẽ dễ rơi vào xuồng, không rơi ra ngoài. Sự tính toán của người dân quê xem ra rất khoa học, hợp lý, nó cũng cho thấy đây thật sự là xứ sở “trên cơm dưới cá”. Tại một điểm, chỉ câu được cá he trong vòng mười, mười lăm phút vì cá he rất tinh khôn, hơn nữa, nếu lâu quá, thả mồi nhiều cá ăn no bụng cũng đi mất. Người câu giỏi, "sát cá" chỉ trong thời gian ngắn ngủi đó cũng có thể câu được trên dưới hai mươi con cá he to, tổng khoảng bốn, năm ký cá. Một buổi trưa đi câu chừng hai hoặc ba điểm cũng đã mệt đừ. Có điểm nhiều cá, có điểm ít cá, vì vậy, người thợ câu luôn tìm chỗ mới để tiếp tục câu cho hết mùa.

Cá He câu được, họ đem ra chợ bán hoặc rộng lại để ăn dần khi hết mùa. Vì một năm chỉ có thể câu cá He trong khoảng hai tuần nên người dân quê phải tận dụng tối đa, tìm nhiều phương pháp để câu càng nhiều càng tốt và với cá He, kỹ thuật câu bằng mồi hạt bông gòn là hiệu quả nhất. Tuy nhiên, kỹ thuật này không phải ai cũng biết, mà nếu có biết kỹ thuật cũng không phải ai cũng câu giỏi như nhau. Có khi hai người ngồi cách nhau chừng vài thước, cùng một khu vực, cùng một loại mồi, một loại cần, một cách câu mà người thì giật không kịp còn người kia chỉ được nhìn trời, bồn chồn, sốt ruột.

Cá He làm món ăn ngon nhất là chiên tươi. Có người đánh vẩy và cũng có người không,chỉ mổ bụng lấy lòng ruột bỏ đi nhưng để lại mỡ và gan. Mỡ cá He dùng để chiên cá, phần còn thừa đem nhét lại vào bụng cá, chặt bỏ một chút phần miệng nhọn, vạt hai vách ở mang cá và để nguyên mang, đem rửa thật sạch nhiều lần với muối bọt vì mang cá có rất nhiều nhớt. Cá để nguyên con, chảo thật nóng đã có mỡ phi hành tỏi thơm phức, mỡ có thể dùng mỡ heo, mỡ cá he vừa mới làm hoặc dầu ăn rồi cho cá he vào. Xuống lửa thấp ngọn, lửa liu riu cá lâu chín nhưng chiên ngon hơn và ăn luôn vẩy rất dòn, còn chiên lửa háp, ngọn cao, mau chín cũng dễ bị khét lại không ăn được vẩy.

Cá He làm món ăn ngon nhất là chiên tươi

Ở nhà quê, người ta thường làm nước mắm me để ăn với cá nhưng cá chiên lại không dùng nước mắm me mà dùng nước mắm pha loãng có thêm chanh hoặc pha giấm. Chỉ có ăn cá nướng, cá hấp và các món rùa, rắn, lươn mới dùng nước mắm me. Nước mắm chanh (giấm) có tỏi ớt, pha loãng là dành cho con cá chiên ngập nước mắm. Dân quê ăn mặn hơn dân thành thị. Một con cá chiên cho vào một dĩa nước mắm, loại dĩa có đáy sâu, rồi chấm cùng với dưa chua làm từ bông điên điển hay bông súng ăn rất bắt.

Cả ba giống cá He, Dinh, Dảnh có những cách chế biến gần giống nhau. Món cá Dảnh kho mềm rục, lửa liu riu, kho lâu có khi mất cả buổi, ăn luôn cả xương và vẩy rất bùi. Kho cách này, người ta thường sắp ở đáy nồi một lớp mía đã được róc vỏ, chẻ ra từng miếng ngắn để cá nằm lên trên. Nước  mắm  pha  loãng, có  thể  cho vào một chút đường hoặc bột ngọt, nếm thử, đổ vào nồi chỉ vừa đủ ngập cá một chút nếu muốn cá kho khô cạn. Muốn kho còn nước để chan cơm ăn hoặc dùng chấm rau ghém hay bông điên điển tươi, người ta đổ nước mắm pha loãng nhiều hơn. Các bà, các cô kho cá, kho thịt thường ướp nước màu. Kho cá cách này không ướp nước màu mà để nước trong, đẹp hơn và ăn khoái khẩu hơn.

Cá He kho mềm rục, lửa liu riu, kho lâu có khi mất cả buổi, ăn luôn cả xương và vẩy rất bùi

Ba giống cá: He, Dinh, Dảnh có rất nhiều xương nhỏ li ti, trẻ con ăn phải cẩn thận, dễ bị mắc xương. Bụng cá là chỗ không có xương nhỏ, chỉ có xương to ở  hai bên lườn và xuôi xuống, rất dễ tách ra. Từ họng đến hết lườn cá là chỗ ngon nhất lại không có xương, cha mẹ cưng con thường cho con ăn phần này. Còn cái đầu cá dù nhỏ nhưng ăn rất béo, bùi, cánh đàn ông ưa nhất. Cách chế biến các món ăn cũng quanh quẩn chiên tươi, chiên cá muối, nướng, kho, nấu canh. Cá he nhiều lại bị chết cũng đem làm khô, làm mắm như các giống cá khác. Một món ăn đặc biệt khác từ cá He, Dinh, Dảnh: cá chết vài tiếng trở lên, người ta rửa sạch, xẻ rãnh từ lưng đến bụng, đem lăn muối sả ớt, nhét sả vào những cái khe nhỏ của đường xẻ và nhét sả vào bụng cá rồi đem chiên, nướng rất thơm ăn với cơm nóng là tuyệt ngon.

(còn tiếp)

VietnamFishingReview