Thế giới mồi PoP

Jun 19, 2018 10:02:00

Popper, Pencil Popper và Stickbait là những loại mồi nhử lớn chuyên câu Popping GT. Nhiệm vụ của chúng rất rõ ràng: tấn công loại cá lớn nhất có thể bằng cách lao ra, tạo nên những tiếng động lớn, làm tóe nước, rung lắc thân thể một cách dữ dội… Những hành động này có sức quyến rũ kỳ lạ với cá GT và hiếm khi loài cá bạo ngược này có thể cưỡng lại được.

Đây là những loại Surface Lure (tạm dịch là mồi nhử bơi trên mặt nước) có tính chuyên môn cao (Popping là môn câu rất đặc biệt). Chúng có thể tạo nên những cảnh tượng hết sức lạ lùng mà ta có thể chiêm ngưỡng được trên mặt nước, là nguồn adrenalin của môn câu thể thao cực kỳ hấp dẫn này.

GT Popping là môn câu đặc biệt hấp dẫn đối với mọi câu thủ

Vậy Surface Lure là gì? Nó được làm dựa trên nguyên lý nào? Thật ra gọi chung chúng là “Surface Lure” là rất mơ hồ. Vì có một số loại được sử dụng trên mặt nước nhưng không phải là Surface Lure, ví dụ như mồi Stickbait, loại mồi buộc phải có nếu muốn bắt cá lớn. Không chỉ hoạt động quanh khu vực bề mặt một cách hiệu quả, chúng còn bao thầu được phạm vi sát mặt nước nhờ khả năng lặn. Rất linh hoạt, chúng lao nhanh như tên bắn, trồi lên hụp xuống gây khó chịu, làm điên đảo loài cá săn mồi. Cũng bắt cá trên mặt nhưng tại sao Stickbait lại không được xếp vào hàng ngũ các loại mồi Surface “chính hiệu”? đơn giản vì chúng có một thân thể đúng chuẩn Surface nhưng miệng lại không vát vào. Khả năng và action của mồi Stickbait cho thấy thế giới mồi Popping GT vô cùng phong phú, mỗi loại mồi đều có những đặc thù và công dụng riêng. Sử dụng chúng như thế nào cho hiệu quả, phù hợp với từng điều kiện, tình huống cụ thể đòi hỏi người câu phải có một vốn kiến thức và kinh nghiệm nhất định.
1. Mồi Poper lớn
Popper lớn là một loại mồi bề mặt được thiết kế để “Pop”, nghĩa là bật, tạt làm bắn nước, tạo âm thanh. Khi lao đi trong nước, chúng tạo nên những đám bọt sóng trắng xóa, gửi đi những tiếng động, tiếng lạo xạo rất ấn tượng với động vật ăn thịt. Hầu hết mồi Popper đều dài từ 15-25cm, có 2 hình dạng chính là ngắn- to, mập và dài-thanh mảnh. Mẫu dài, nói không ngoa, có loại to bằng cẳng tay người. Chúng có mặt trước lõm vào hình chén, hai chấu trên thân dùng để gắn vào loại lưỡi treble lớn, cũng có khi gắn lưỡi đơn.

Popper có nhiệm vụ buộc con cá đang bơi lửng phải lao lên mặt nước tấn công mình. Mồi này cực kỳ hiệu quả với các loài cá lớn có thói quen bơi lơ lửng quanh các hang, rạn như cá GT, cá Cubera Snapper (sống ở mực sâu 18-55m, dài khoảng 90cm, trọng lượng có thể đạt tới 57kg) hay cá Rooster (chiều dài có thể lên đến 1.6m, cân nặng 50kg). Chính tiếng ồn phát ra từ con mồi sẽ lôi kéo chúng trồi lên mặt nước và tấn công mồi bằng một thái độ rất hung bạo. Mồi càng chuẩn thì càng có âm thanh mê hoặc, đó là lý do tại sao có loại mồi đắt, có loại mồi rẻ, có loại luôn được săn tìm, có loại bày bán khắp nơi mà hiếm người mua. Popper cũng là vũ khí “chết người” dành cho loài cá Ngừ lớn.

Mồi Popper lớn hoạt động tốt nhất trong điều kiện nước từ êm cho đến hơi động (có sóng bập bềnh). Tuy nhiên, nhìn chung, chúng có thể được dùng trong mọi điều kiện biển. Chúng đặc biệt hiệu quả khi ánh sáng yếu và khi cá đang ở trong nước sâu. Chính tiếng ồn và sự rẽ nước đã triệu cá lên bề mặt, thường là với một tốc độ chóng mặt cùng một “ thái độ” hung bạo và phấn khích.

Nhiều câu thủ cho rằng chỉ có loại Popper lớn nhất (hơn 25cm) mới có khả năng kéo lên những con cá khổng lồ, hơn bất kỳ loại mồi Surface nào khác. Tất nhiên là đòi hỏi phải rất nhiều nỗ lực nữa nhưng những size này thật sự hấp dẫn cá lớn vì phong cách thu dây chậm rãi và đầy kịch nghệ khi dùng mồi Popper lớn khó mà kích thích được cá nhỏ.

Chủ đích của loại mồi nhử này là tạo ra chấn động lớn trong tầm nhìn trên mặt nước. Sẽ đạt được mục tiêu này một cách tốt nhất nếu di chuyển cần câu từ trước mặt rồi giật mạnh về hướng cơ thể. Hoặc đặt cần nằm ngang về phía trước sau đó giật thật mạnh. Hoặc quét cần về phía thích hợp. Quay máy thu dây chùng thật nhanh. Ngừng lại một vài giây hoặc thu dây thật chậm cho đến lượt kế tiếp. Các câu thủ GT chuyên nghiệp thường dùng một loại đai có tên là “Gimble Belt” để làm giá đỡ cho cần câu trong lúc giật cần, gần như ngay lập tức, trở lại phía cơ thể. Dụng cụ này không chỉ trợ giúp hiệu quả cho hoạt động của mồi nhử mà còn là một trong những phương cách giúp cho họ thoải mái nhất, ít chán nhất, có vị trí tốt nhất để sẵn sàng cho cuộc tấn công.

Chọn mồi Popper nên chọn loại mồm vạt sâu và rộng để tối đa hóa lượng nước tóe ra mà không phải nỗ lực nhiều. Cũng nên chú ý đến lớp ngoài, phải hoàn hảo, khó trầy, màu sắc sinh động. Kết cấu bằng loại gỗ tốt, cân xứng với móc kim loại khỏe là tối ưu. Mồi làm bằng gỗ Cypress (cây Bách) có độ cân bằng tốt nhất, rất bền. Muốn câu cá lớn thì chọn mồi lớn, mồi càng lớn thì cá ăn mồi càng to.

2. 
Mồi Pencil Popper
Không giống như popper lớn, mồi Pencil Popper rất thanh cảnh, luồn lách trong nước dễ dàng. Chúng tạo ra một vệt bọt dài bắn tung tóe khi hoạt động tốc độ trên mặt nước. Pencil Popper thường dài 20-30cm, Loại lớn hơn nữa cũng không phải là hiếm. Thỉnh thoảng có loại cũng không có mặt lõm vào dạng chén.

Pencil Popper hoạt động tốt nhất ở loại nước từ êm đến có sóng nhỏ. Loại nước này cũng cho phép thu dây dễ dàng hơn. Câu mồi giả mà thu dây nhanh trong điều kiện biển động, thời tiết xấu đôi khi có thể làm cho mồi nẩy lên và mất hút trên đỉnh sóng, làm hỏng ý đồ của người câu. Mặc dù mồi Pencil Popper được dùng trong mọi độ sâu của nước nhưng chúng sẽ rất lý tưởng nếu dùng sát mặt nước, nơi mà không cần phải hoạt động rất xa mới gây được sự chú ý. Sử dụng mồi Popper Pencil rất thú vị.

Điều khiển cho mồi Pencil Popper hoạt động càng nhanh càng tốt, nhằm bắt chước 1 con mồi đang sợ hãi và trốn chạy. Thực hiện tốt nhất action này bằng cách hướng cần về phía trước, giữ cho đầu cần cao và quay máy nhanh nhất có thể. Thêm vào một số chuyển động lên, xuống với tay giữ chặt cần. Thỉnh thoảng ngưng lại. Có thể tựa cần vào Gimble Belt để giữ cho đầu cần cao. Điều này tương tự như kỹ thuật “Walk The Dog”. Nếu nhìn thấy bóng cá lớn, hãy làm chậm lại. Loại mồi này hoạt động tốt nhất trong điều kiện sóng thấp và ít gió.

Một cách thu dây hiệu quả khác nữa là đặt cần ở vị trí thấp rồi quét mồi giả để nó lặn ngay dưới mặt nước. Điều này làm cho mồi giả vọt ra nhiều mét trước khi tiếp cận mặt nước, rồi sau đó lập lại hành động này. Làm chùng dây và chuẩn bị cho cuộc tấn công.

3. Mồi Stickbait
Có kích thước và kết cấu tương tự như Popper nhưng Stickbait không có miệng lõm vào hình chén. Chúng thường nổi và dài hơn hầu hết các loại Popper. Một số loại có mũi có góc cạnh giúp cho mồi lặn xuống, quẫy, đập từ bên này sang bên kia như một con cá bị thương. Nhiều câu thủ chuyên nghiệp thường thích loại mồi Stickbait có mũi có góc cạnh vì hình dạng này tạo rung động nhiều nhất.  Về màu sắc, không giống như Popper, Stickbait được làm ra để bắt chước mồi thật vì vậy hãy chọn loại có hình dạng và màu sắc gần giống với cá nhỏ thường trú ở điểm câu.

Stickbait không phải là hiện tượng mới nhưng ứng dụng của chúng thật sự là mới trong lĩnh vực này. Mồi Stickbait thường có chiều dài dao động trong khoảng 15-25cm, không có miệng hình chén và được đánh giá là một loại mồi rất linh hoạt, năng nổ trong nước. Chúng thực sự là những quả “ngư lôi” giúp gia tăng tỉ lệ bắt cá. Stickbait đã được các câu thủ câu GT giỏi nhất Nhật Bản phát triển lên trong suốt một thập kỷ qua. Mặc dù không phải là loại mồi Surface hoàn toàn, chúng vẫn là một trong những loại mồi nhử trên mặt nước phổ biến nhất hiện nay.

Được thiết kế để lao tới một cách chập choạng, bất định, Stickbait làm nổi bọt ở trên hay ngay bên dưới mặt nước , để lại vết rẽ nước khi hoạt động. Stickbait thường làm việc tốt nhất trong điều kiện nước êm và có sóng nhẹ. Dù rất hiệu quả, chúng có rất ít hành động . Điều tốt nhất mà chúng có thể làm là hoạt động cần mẫn để kiến tạo các cuộc tấn công trong các vùng biển dữ dội (action không có tác dụng).

Mồi Stickbait có 2 loại. Loại nổi, nhẹ hoạt động tốt nhất trong nước êm. Loại chìm, nặng có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào, đặc biệt là khi có bão tố, biển động mạnh.

Làm việc với Stickbait là cả một sự mới mẻ với những ai chỉ dùng loại mồi Surface truyền thống. Đầu cần câu vừa phải đủ nhạy, vừa phải mạnh mới điều khiển tốt Stickbait.

3.1 Đối với mồi Stickbait nhẹ, nổi có thể được điều khiển theo 2 cách:
* Trên mặt nước.
Vì mồi phải hoạt động thật nhanh, giống với con cá mồi đang sợ hãi và trốn chạy nên câu thủ nên đặt cần ở vị trí phía trước, giữ đầu cần cao, thỉnh thoảng quét phía trên và quay thu dây càng nhanh càng tốt. Thêm vào một vài sự di chuyển lên – xuống với tay giữ chặt cần, thỉnh thoảng ngưng lại.

* Dưới mặt nước (trong vòng 1 mét)
Đến nay, đây vẫn là kỹ thuật hiệu quả nhất và được ưa chuộng nhất: Hướng đầu cần xuống, quét một mặt dài sẽ làm cho Stickbait chìm và rít vèo một vài mét trước khi nhảy ra khỏi mặt nước. Theo sát từ đầu đến cuối với đầu cần để có đường quét tốt. Vút cần liên tục và giật mạnh cũng sẽ cung cấp action tốt cho mồi nhử. Tạm ngưng một lúc khi Stickbait nhấp nhô bập bềnh. Lập lại hành động này.

3.2 Đối với loại mồi Stickbait chìm (Sinking Stickbait), kỹ thuật câu tốt nhất là áp dụng kỹ thuật câu dưới mặt nước với mồi Stickbait nổi đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, mồi Stickbait lý tưởng nhất là chỉ chìm trong vòng 1 mét hoặc đến nơi có cá (không quá sâu). Với việc hướng đầu cần lên cao, chúng có thể nhảy ra khỏi mặt nước, chồm lên mặt nước dọc theo bề mặt.

4. Nên chọn mồi Popper hay Stickbait?
Nói đến Popping GT ai cũng nghĩ ngay đến mồi Popper, thế nhưng sử dụng mồi Stickbait (chìm và nổi) song song với Popper cũng là một ý kiến tuyệt vời vì có những ngày cá GT, trong cùng một địa điểm, muốn tấn công nhiều loại mồi khác nhau. Thay đổi từ Popper sang Stickbait hoặc ngược lại cũng sẽ làm tăng cơ hội. Sự tạt nước, ồn ào của Popper lôi cuốn được một số loài nhất định, còn trạng thái lặn xuống của một con Sinking Stickbait kích thích được các loài cá quanh rạn san hô, GT thì mê cả hai.

Mồi Popper rất phổ biến ở các vùng biển nhiệt đới, dùng để câu các loài như GT, Wahoo (cá Thu ngàng), Spanish Mackerel (cá Thu vạch) và nhiều loài khác bao gồm cả cá Ngừ vây vàng (Yellowfin Tuna). Chính tiếng động ồn ào của nó đã kích thích bản năng của các loài cá săn mồi. Nhiều câu thủ Australia nói rằng, khi câu ở Great Barrier Reef (hệ thống rạn san hô lớn nhất, nhì thế giới, thuộc Australia), để chứng minh sợ hơn kém giữa mồi Stickbait và Popper, họ bố trí 2 người, 01 quăng mồi Stickbait ở phía mũi tàu và 01 ném Popper ra từ đuôi tàu. Sau đó quan sát động thái của cá: Mồi Stickbait chạm nước trước, theo sau là một vệt nước bắn tóe lên. Ngay lượt quét mồi đầu tiên đã thấy 01 con GT xuất hiện, ngày càng rõ dần. Nhưng khi con mồi Popper đáp xuống mặt nước chỉ vài giây sau đó cùng một vài tiếng “Bloop, Bloop” đầu tiên, con GT bỗng đổi hướng ngay lập tức, nó xoay mình lại và lao trực diện vào con Popper với một thái độ hung hãn. Chưa đến vài giây sau, con Popper đã bị táp gọn, cần câu cong xuống và cuộc chiến đã diễn ra.

Câu rạn vùng nhiệt đới, 80% số cá bị bắt bằng Popper, cao hơn nhiều so với mồi Stickbait. Hệ quả này có thể là do con cá rạn rất cảnh giác với các hành động lập dị bất thường, sự vờ vĩnh quấy rối của mồi Stickbait. Nhưng câu thủ Australia ít dùng Popper để câu cá Kingfish hoặc Wahoo mặc dù ở một số thời điểm mồi này cũng rất hiệu quả. Họ cho rằng tiếng ồn của Popper không có tác dụng lắm với cá Kingfish. Nhưng Popper rất hiệu nghiệm trong việc nhử cá, họ tận dụng tiếng động và thái độ “hỗn xược” của nó để gây sự chú ý, làm cho con cá phải ngước lên và bơi lên theo, để cho bạn câu của họ quăng mồi Stickbait ra hạ gục cá. 9 trên10 lần như thế đều bắt được cá Kingfish lớn. Cá Kingfish thích táp Stickbait hơn các loại mồi nhử khác là vì chúng được thiết kế để bắt chước hành vi của các món ăn mà Kingfish khoái khẩu như cá Kahawai, Jack Mackerel hoặc Koheru. Các loại cá này cũng thường được các câu thủ câu mồi sống sử dụng để câu cá Kingfish nhưng với các tay câu thể thao, chúng có thể được thay thế một cách hiệu quả bằng mồi Stickbait vì Stickbait luôn có sẵn cho dù trái mùa vụ. Stickbait cũng rất tiện lợi, chỉ cần quăng đến các điểm cụ thể, thực hiện hành động và thu dây, lập lại hành động. Stickbait cũng không bị chết sau khi trốn chạy loài cá hung tợn này.

Mồi Popper luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các câu thủ GT

Còn các tay câu Popping chuyên nghiệp ở Mỹ thì cho rằng nên mang mồi đủ loại, đủ size để phù hợp với nhiều kích thước cá mồi trong khu vực, không cần để ý đến màu sắc. Mồi Stickbait thì có mồi nổi, mồi lặn (Sub-surface). Nếu không nhìn thấy cá, họ sẽ ném mồi Popper, hoặc nếu máy định vị cho thấy họ đang đứng trên các hang, rạn họ sẽ ném Popper. Còn nếu thấy cá, họ sẽ quăng mồi Stickbait lặn sát mặt nước (Sub-surface lure) suốt cả buổi câu. 

Khoảnh khắc con cá tấn công mồi là phần thú vị nhất của câu cá, là điều làm ta ngóng đợi, làm ta say mê, làm ta “nghiện ngập”. Thế nhưng, tấn công trên mặt nước, ngay trước mắt ta còn kích thích hơn bội phần. Còn gì tuyệt bằng việc tận mắt chứng kiến một con quái thú lao lên từ phía sau con mồi rồi xô tới nuốt chửng nó vào miệng! Đó là một cơ hội mà ai cũng muốn tìm kiếm và không thể bỏ qua.

(Còn tiếp)

Đón đọc bài: “Các mẹo câu Popping GT”

VietnamFishingReview

- Bài viết tham khảo:
Máy câu Popping GT cùng các phụ tùng đi kèm